Có một thực tế đáng buồn là ngành cà phê Việt Nam đang mải tập trung xuất khẩu nguyên liệu mà bỏ quên sân nhà do yếu về chế biến.
Là quốc gia đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu cà phê tuy nhiên lượng cà phê Việt Nam nhập khẩu lại đang tăng mạnh
Vì sao phải nhập khẩu cà phê?
Là quốc gia đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu cà phê, chỉ sau Brazil, tuy nhiên lượng cà phê Việt Nam nhập khẩu lại đang tăng mạnh, chủ yếu dưới dạng rang xay, pha sẵn.
Số liệu từ Cục Xúc tiến Thương mại - Bộ Công thương cho thấy, VN đang tăng nhập cà phê từ các thị trường Mỹ, Brazil và Trung Quốc. Niên vụ 2016/2017, Việt Nam nhập khẩu từ các thị trường này khoảng 1 triệu bao, dự báo niên vụ tới (2017/2018) nhập gần 1,06 triệu bao (ước trên 63.600 tấn cà phê nhân).
Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, xuất khẩu cà phê năm 2017 đạt hơn 1,4 triệu tấn và 3,2 tỉ USD, giảm 20% về khối lượng và giảm 4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2016.
Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai thế giới, chiếm 19% thị phần cà phê toàn cầu. Thế nhưng 90% cà phê xuất khẩu dạng thô: Cà phê nhân xô. Tỉ lệ cà phê chế biến sâu vẫn còn rất khiêm tốn, chiếm khoảng 10% sản lượng cà phê cả nước.
Nhiều công ty kinh doanh cà phê cho biết lâu nay Việt Nam vẫn nhập cà phê với số lượng ngày càng tăng qua các năm. Theo lý giải, sở dĩ Việt Nam nhập khẩu cà phê nhiều trong những năm gần đây là do các chuỗi cà phê trong nước đang rất phát triển, nhiều thương hiệu cà phê nước ngoài có mặt và mở chuỗi khắp các thành phố lớn như Starbucks, McCafé, Dunkin Donuts, Gloria Jeans, Highlands…Chưa kể các chuỗi cà phê trong nước như Trung Nguyên, Phúc Long, My Life Coffee, Coffee House, Passio… mọc lên nhiều nên lượng cà phê rang xay được tiêu thụ ngày càng lớn.
Chủ yếu hàng nhập khẩu là loại chất lượng cao để phục vụ tại các khách sạn, nhà hàng, tiệm cà phê cao cấp, cà phê trong nước chưa đáp ứng được. Do nhu cầu ngày càng nhiều nên lượng nhập khẩu cũng tăng dần. Tuy nhiên, có một thực tế đáng buồn là ngành cà phê mải tập trung xuất khẩu nguyên liệu mà bỏ quên sân nhà do yếu về chế biến.
Chính vì thế, hạt cà phê Việt Nam đi qua nhiều nước, qua chế biến và nhập khẩu trở lại với giá cao gấp 2-3 lần ban đầu.
Yếu về công nghệ rang xay, chế biến
Theo chuyên gia cà phê, các hãng đồ uống nước ngoài đặt ra rất nhiều yêu cầu khắt khe về nguồn nguyên liệu cho các sản phẩm của họ. Nhưng hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam chưa đủ sức, đủ công nghệ, đủ khả năng cạnh tranh với những thương hiệu cà phê rang xay, hòa tan nước ngoài.
Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, ước tính trên 80% sản lượng cà phê được sơ chế khô tại các hộ gia đình với sân phơi tạm bợ như sân đất, sân đất kết hợp bạt hoặc xi măng. Do máy móc, thiết bị sơ chế của người dân còn lạc hậu, cộng với nguyên liệu thu hoạch không đáp ứng đủ tiêu chuẩn về độ chín, tạp chất dẫn đến chất lượng cà phê còn thấp.
Đối với chế biến cà phê bột, các cơ sở chế biến chủ yếu quy mô nhỏ lẻ với máy móc, thiết bị chế tạo trong nước, một số máy móc thủ công, chưa bảo đảm điều kiện an toàn thực phẩm và chất lượng sản phẩm. Mặt khác, việc pha trộn nguyên liệu thay thế và các hóa chất chưa kiểm soát được dẫn đến những lo ngại về chất lượng cà phê bột.
Các công ty cà phê rang xay, hòa tan của Việt Nam hiện nay dù đã có sản phẩm xuất khẩu nhưng các thương hiệu nước uống vẫn phải nhập khẩu do công nghệ rang xay, chế biến trong nước vẫn không thể theo kịp các nước trên thế giới.
Thậm chí so với Trung Quốc, ngành rang xay và chế biến cà phê trong nước vẫn chậm chân. Quốc gia này đã nhập khẩu cà phê nhân của Việt Nam nhiều năm nay nhưng vài năm trở lại đây với công nghệ rang xay, chế biến phát triển, Trung Quốc lại xuất khẩu sản phẩm cà phê đạt chất lượng tốt vào Việt Nam.
Một số doanh nghiệp đã ý thức để đầu tư công nghệ cho rang xay và chế biến. Tuy nhiên, thực tế triển khai không dễ do để đầu tư một nhà máy chế biến cần lượng vốn lớn và còn chịu áp lực cạnh tranh rất lớn từ các doanh nghiệp ngoại đang đầu tư tại Việt Nam.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có Quyết định số 4653/QĐ-BNN-KHCN về việc phê duyệt Đề án khung phát triển sản phẩm quốc gia "Cà phê Việt Nam chất lượng cao", giai đoạn 2018-2023, tầm nhìn đến năm 2030.
Trong đó, đề xuất các chính sách hỗ trợ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng đối với sản phẩm cà phê trên cả nước, ưu tiên cho các vùng chủ lực là Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ, trung du miền núi phía Bắc đến năm 2020.
Theo đó, ngành cà phê phấn đấu hoàn thành 2 mục tiêu: Giữ vững vị trí thứ 2 về sản xuất và xuất khẩu cà phê nhân trên thế giới; đẩy mạnh khâu chế biến cà phê rang xay, hòa tan, các sản phẩm khác, đưa giá trị gia tăng và kim ngạch xuất khẩu đến năm 2030 đạt 6 tỷ USD, tức là cao gần gấp đôi so với hiện nay.
Nguồn: Xã Luận